TỈNH ỦY AN GIANG BAN TUYÊN GIÁO * "V/v cung cấp nội dung tuyền truyền tuần 41" | ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
An Giang, ngày 07 tháng 10 năm 2024
|
NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN
(từ ngày 07/10 đến ngày 14/10/2024)
-------------
Nhằm phục vụ tốt công tác tuyên truyền ở cơ sở, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy cung cấp một số nội dung tuyên truyền trong tuần để các đồng chí tham khảo, trong quá trình chỉ đạo, định hướng cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trên địa bàn tỉnh:
1. Kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô Hà Nội (10/10/1954-10/10/2024)
Sau chín năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, với ý chí không gì lay chuyển được và tinh thần chiến đấu ngoan cường, thông minh, gan dạ, đầy sáng tạo của quân và dân ta, đặc biệt với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 , thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ ngày 21/7/1954 về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; chấp nhận rút quân khỏi miền Bắc nước ta.
Theo các điều khoản của Hiệp định, Hà Nội nằm trong khu vực tập kết 80 ngày của quân đội Pháp. Tuy nhiên, thực dân Pháp lợi dụng thời gian này để phá hoại các cơ sở kinh tế, văn hóa, lôi kéo người di cư vào Nam, gây rối loạn và làm cho mọi công việc bị đình trệ. Biết trước âm mưu của Pháp, ý thức rõ quy mô và tầm quan trọng của việc tiếp quản Hà Nội, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng đã cử các đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, Xuân Thủy, Tố Hữu trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo công tác tiếp quản Thủ đô. Ngày 17/9/1954, theo quyết nghị của Chính phủ, Ủy ban Quân chính thành phố Hà Nội được thành lập để làm nhiệm vụ tiếp quản thành phố.
Sáng ngày 10/10/1954, Ủy ban Quân chính Thành phố và các đơn vị quân đội gồm có bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới… chia làm nhiều cánh lớn đã mở cuộc hành quân lịch sử tiến vào Hà Nội. Vào lúc 15 giờ, sau một hồi còi dài tại Nhà Hát Lớn, hàng trăm nghìn người dân Hà Nội và các lực lượng vũ trang đã chỉnh tề tham dự lễ chào cờ do Ủy ban Quân chính tổ chức tại Sân vận động Cột Cờ.
Ngày Giải phóng Thủ đô là sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trọng, khẳng định thắng lợi hoàn toàn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng thời mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử ngàn năm văn hiến của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
2. Ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10
Quyết định số 505/QĐ-TTg, ngày 22/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ chọn ngày 10/10 hằng năm là Ngày Chuyển đổi số quốc gia.
Ngày Chuyển đổi số quốc gia được tổ chức hằng năm nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ về chuyển đổi số quốc gia, thực hiện có hiệu quả Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; đồng thời nâng cao nhận thức của người dân toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của chuyển đổi số và thúc đẩy sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số.
Ngày Chuyển đổi số quốc gia sẽ là hoạt động thường niên để đánh giá kết quả chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương trong năm và chia sẻ kinh nghiệm, cách làm mới để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Ngày Chuyển đổi số quốc gia không chỉ mang ý nghĩa chào mừng, tôn vinh, khen thưởng các tổ chức, cá nhân đã tham gia vào tiến trình chuyển đổi số quốc gia, mà còn là dấu mốc để đánh giá hoạt động chuyển đổi số hằng năm.
Ngày Chuyển đổi số quốc gia năm 2024 tập trung vào chủ đề “Phổ cập hạ tầng số và sáng tạo ứng dụng số để phát triển kinh tế số - Động lực mới cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động”.
3. Một số quy định về công tác xã hội
Ngày 30/8/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2024/NĐ-CP về công tác xã hội. Nghị định này quy định quyền và nghĩa vụ của đối tượng công tác xã hội; quyền và nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội; điều kiện đăng ký hành nghề công tác xã hội; thực hành nghề công tác xã hội; thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, cấp lại và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội. Nghị định áp dụng đối với người làm công tác xã hội, người hành nghề công tác xã hội; cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; cá nhân, nhóm, gia đình và cộng đồng thực hiện các hoạt động liên quan đến công tác xã hội tại Việt Nam.
Dịch vụ công tác xã hội gồm một hoặc nhiều dịch vụ sau: Cung cấp các dịch vụ bảo vệ khẩn cấp; đánh giá nguy cơ rủi ro, nhu cầu của đối tượng; sàng lọc và phân loại đối tượng, trường hợp cần thiết thì chuyển gửi đối tượng tới các cơ sở y tế, giáo dục, cơ quan công an hoặc các cơ quan, tổ chức phù hợp khác; bảo đảm sự an toàn và đáp ứng các nhu cầu khẩn cấp của đối tượng về chăm sóc y tế, nơi tạm trú an toàn, nước uống, thực phẩm, quần áo, đồ dùng thiết yếu và đi lại.
Đánh giá nhu cầu, sàng lọc, phân loại đối tượng; lập hồ sơ quản lý trường hợp; tư vấn, tham vấn, hỗ trợ tâm lý, phục hồi tâm lý cho đối tượng; trị liệu rối nhiễu tâm trí, trị liệu sang chấn, khủng hoảng tâm lý và phục hồi thể chất; can thiệp, bảo vệ, chăm sóc, phục hồi và hỗ trợ phát triển cho các đối tượng; xây dựng và thực hiện kế hoạch can thiệp, trợ giúp đối tượng; giám sát và rà soát, đánh giá các hoạt động can thiệp, trợ giúp và điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp; kết thúc kế hoạch can thiệp hỗ trợ đối tượng, lưu trữ hồ sơ quản lý đối tượng hoặc thực hiện kế hoạch can thiệp, trợ giúp mới; quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng; kết nối cung cấp dịch vụ điều trị y tế, chăm sóc sức khỏe; kết nối chuyển gửi đối tượng đến cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội hoặc cơ sở khác nhằm đáp ứng nhu cầu của đối tượng; tổ chức hoạt động phục hồi chức năng, văn hóa, thể thao, tôn giáo và hoạt động khác phù hợp với lứa tuổi và sức khỏe cho đối tượng; tổ chức dạy văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục nghề nghiệp, tạo sinh kế, việc làm nhằm trợ giúp đối tượng phát triển về thể chất, trí tuệ, nhân cách và hòa nhập cộng đồng; hỗ trợ đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội; tìm kiếm, sắp xếp các hình thức chăm sóc phù hợp…
Thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong lĩnh vực y tế, giáo dục, tư pháp, tòa án, phúc lợi xã hội, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ em, chăm sóc người cao tuổi và người khuyết tật, giảm nghèo, phòng, chống ma túy, phát triển cộng đồng, công tác xã hội với người lao động và lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Quản lý trường hợp đối tượng sử dụng dịch vụ công tác xã hội tại cơ sở và ở cộng đồng.
Liên hệ với người dân, chính quyền các cấp trong việc xác định các vấn đề của cộng đồng để xây dựng chương trình, kế hoạch trợ giúp cộng đồng; đề xuất cơ chế, chính sách và giải pháp công tác xã hội với các cơ quan có thẩm quyền; xây dựng mạng lưới nhân viên, cộng tác viên, tình nguyện viên công tác xã hội; tổ chức các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức về công tác xã hội. Hỗ trợ đối tượng đủ điều kiện ra khỏi cơ sở trợ giúp xã hội, cơ sở giam giữ, cơ sở cai nghiện, cơ sở y tế trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống. Tổ chức vận động nguồn lực thực hiện hoạt động công tác xã hội.
Người hành nghề xã hội có các quyền sau: Quyền hành nghề công tác xã hội; quyền từ chối cung cấp dịch vụ công tác xã hội; quyền được nâng cao năng lực chuyên môn công tác xã hội; quyền được bảo đảm an toàn khi hành nghề công tác xã hội; quyền được thực hiện biện pháp can thiệp công tác xã hội.
Nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội, bao gồm: nghĩa vụ của người hành nghề công tác xã hội đối với đối tượng sử dụng dịch vụ công tác xã hội; đối với nghề nghiệp; đối với đồng nghiệp; đối với xã hội; về thực hiện đạo đức nghề nghiệp.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Nghị định trên địa bàn. Bố trí kinh phí, nhân lực thực hiện các đề án, dự án, chương trình, nhiệm vụ phát triển công tác xã hội trên địa bàn. Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hành nghề công tác xã hội theo thẩm quyền. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức, hoạt động của người hành nghề công tác xã hội thuộc phạm vi quản lý.
4. Đẩy mạnh mô hình “Gia đình học tập” và “Dòng họ học tập” trong xây dựng xã hội học tập ở nước ta hiện nay
Dân tộc ta có truyền thống siêng năng, hiếu học, muốn thành người tốt thì trước tiên phải học - học để làm người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao hai chữ hiếu học. Người nói rằng ở Người chỉ có một ham muốn duy nhất là “ham học, ham làm, ham tiến bộ. Bởi vậy, chúng ta cần “Học không bao giờ cùng” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi học tập là chìa khóa mở đường để mỗi con người, mỗi gia đình, dòng họ, bản làng và đất nước bước vào thế giới hiện đại; xây dựng xã hội học tập, bảo đảm cho xã hội phát triển bền vững.
Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm đưa văn hóa học tập vào cuộc sống của Nhân dân, đến với mỗi gia đình, mỗi dòng họ để phát triển vững chắc gia đình, dòng họ thì văn hóa học tập gia đình, văn hóa học tập dòng họ được xác định là yếu tố cơ bản, vừa là mục tiêu, giá trị hướng tới, vừa là động lực bền vững thúc đẩy sự phát triển và ổn định xã hội, để tạo nên những cộng đồng dân cư học tập, hướng đến phát triển xã hội học tập. Trên nền tảng đó các mẫu hình học tập “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập” truyền thống được củng cố và phát huy, những giá trị văn hóa học tập thời đại sẽ tạo ra bản sắc văn hóa học tập, xã hội học tập của dân tộc Việt Nam, hình thành một quốc gia học tập, văn hóa và văn minh trong thời đại kinh tế tri thức dưới tác động cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Triển khai chủ trương của Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo, về xây dựng các mô hình học tập góp phần xây dựng xã hội học tập ở nước ta theo tinh thần Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Kết luận số 49-KL/TW của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg, Quyết định số 1373-QĐ-TTg về phê duyệt các đề án xây dựng xã hội học tập với mục tiêu nhằm đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời ở ngoài nhà trường; đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng; xây dựng các mô hình học tập với những tiêu chí đánh giá, công nhận theo yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực trong cả nước.
Đến nay, sau nhiều năm triển khai, việc xây dựng mô hình gia đình, dòng họ với nền tảng văn hóa học tập của gia đình, của dòng họ hướng đến gia đình hạnh phúc bền vững, xác lập hệ giá trị theo hướng chân - thiện - mỹ với những nội dung, giá trị chủ yếu là tinh thần hiếu học, luôn cầu tiến và sáng tạo trong tiếp thu những tri thức khoa học; thủy chung, hòa thuận, hiếu thảo, trung thực, giản dị, khiêm tốn, trách nhiệm trong lối sống và nếp sống để hoàn thiện nhân cách của mỗi thành viên trong từng gia đình, từng dòng họ nhằm củng cố các mối quan hệ trong gia đình, giữa các gia đình với nhau và giữa gia đình với dòng họ, với xã hội đã mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần làm thăng hoa văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.
Hội Khuyến học Việt Nam được Chính phủ giao nhiệm vụ đẩy mạnh phong trào học tập trong gia đình, dòng họ, cộng đồng, đơn vị, đến nay, các cấp hội trong cả nước đã và đang triển khai mạnh mẽ việc đăng ký, bình xét danh hiệu: “Công dân học tập” với ba tiêu chí khung dựa trên năng lực tự học, học tập suốt đời; năng lực sử dụng công cụ học tập, làm việc và năng lực xây dựng và thực hiện các mối quan hệ xã hội của từng người dân/công dân trong xã, công dân học tập là người lao động, công dân học tập là cán bộ công nhân viên, doanh nhân, công dân học tập là học sinh, sinh viên, học viên; đăng ký, bình xét danh hiệu “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập” và “Đơn vị học tập” với các tiêu chí khung như kết quả học tập của gia đình, điều kiện học tập của gia đình theo các tiêu chí đánh giá, trong đó có nhiều địa phương đã sáng tạo, tham mưu lồng ghép việc bình xét các mô hình học tập với việc đăng ký, đánh giá “Gia đình văn hóa”, “Thôn/tổ văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”…
Hiện nay, đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam. Do đó, muốn xây dựng một xã hội học tập đúng nghĩa thì không thể coi nhẹ yếu tố “Gia đình học tập”, trong đó yếu tố hạt nhân trong gia đình học tập là mô hình “Công dân học tập”. Không có “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập” thì không thể có “Cộng đồng học tập” , xã hội học tập mà ở đó phải bắt đầu từ công dân, rồi đến gia đình và dòng họ. Mô hình “Công dân học tập” trong mỗi gia đình sẽ tạo nên chất lượng của các mô hình học tập từ cấp hành chính cơ sở trở lên.
Có thể khẳng định, việc xây dựng và thực hiện thành công các mô hình công dân học tập, gia đình học tập trong thời gian qua là một việc làm thiết thực, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương, chiến lược của Đảng, Nhà nước về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Việc triển khai đồng bộ các mô hình học tập đã góp phần khơi dậy truyền thống hiếu học, ham học hỏi, học tập suốt đời trong nhân dân lao động trong cả nước, làm tiền đề cho sự phát triển thành công của việc xây dựng xã hội học tập của từng địa phương, góp phần bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
5. An Giang: Đại hội Tuyên dương nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi lần thứ XX, giai đoạn 2022-2024
Đại hội diễn ra vào ngày 10/10/2024, với chủ đề: “Phát triển các mô hình kinh tế hợp tác gắn với liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị”, Đại hội là diễn đàn nhằm mục đích tôn vinh, tuyên dương các tập thể và cá nhân nông dân điển hình tiêu biểu trong phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đồng thời tổng kết, đánh giá hiệu quả của phong trào thi đua, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm và nhân rộng những điển hình, mô hình sản xuất, kinh doanh tiêu biểu trong cán bộ, hội viên nông dân thời gian tới.
Tại Đại hội, Ban Tổ chức sẽ tuyên dương 304 tập thể và cá nhân nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi trên nhiều lĩnh vực: Trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, kinh doanh nông nghiệp, tiêu thụ nông sản, dịch vụ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn, trang trại, tạo việc làm cho lao động nông thôn, đóng góp xây dựng nông thôn,…
6. Giới thiệu cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Phần thứ nhất: Văn hóa là hồn cốt của dân tộc
Ba yêu cầu lớn của công tác tư tưởng-văn hóa. Đây là lược ghi ý kiến phát biểu tại Hội nghị Công tác tư tưởng – văn hóa toàn quốc, ngày 04/3/1998.
Lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của chúng ta là lĩnh vực cực kỳ quan trọng và cũng hết sức phức tạp, khó khăn, nhạy cảm. Tính chất khó khăn, phức tạp của công tác tư tưởng - văn hóa chẳng những do yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đặt ra mà còn do quần chúng nhân dân đòi hỏi, do chính bản thân công tác tư tưởng - văn hóa đòi hỏi.
Cách mạng nước ta đang ở bước chuyển rất quan trọng. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa giao lưu quốc tế, thực hành dân chủ đặt ra biết bao nhiêu vấn đề mới, phong phú, phức tạp; có cái trả lời cắt nghĩa được, có cái còn đang vận động và phát triển, phải nghiên cứu, thử nghiệm, tổng kết mới có thể kết luận được; ý kiến lại thường rất khác nhau. Chúng ta phải xử lý những vấn đề chưa có tiền lệ và tưởng như mâu thuẫn, nghịch lý: kinh tế thị trường đi lên chủ nghĩa xã hội; kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở quốc doanh phải đóng vai trò chủ đạo, quốc doanh và hợp tác dẩn dần trở thành nền tảng; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, phải xóa đói, giảm nghèo, hạn chế bất công, bóc lột; phải chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo để đi tới xóa hoàn toàn đói nghèo; phải chấp nhận có sự bóc lột để tiến tới xóa bỏ hoàn toàn bóc lột; phải sử dụng những hình thức, những nhân tố của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v..
Ở bước chuyển giai đoạn này thường có sự đan xen và đấu tranh với nhau giữa cái mới và cái cũ, cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai, cái giá trị truyền thống và cái mới du nhập, cái triển vọng và cái quá khứ. Nhiều khi chưa phân thắng bại. Trận tuyến lại không rõ ràng. Trước kia, giữa địch và ta phân tuyến rất rõ; bây giờ vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa là “đối tượng” vừa là “đối tác”, hợp tác với nhau nhưng cạnh tranh nhau, lợi dụng nhau để tìm phần thắng về mình hoặc sao cho mình được lợi nhiều nhất.
Trong bối cảnh và môi trường xã hội hiện nay, người ta đua nhau làm giàu, chịu sự tác động của cơ chế thị trường, chủ nghĩa cá nhân có điều kiện và cơ hội trỗi dậy phát triển; nhiều giá trị đạo đức tinh thần bị đảo lộn; đời sống tâm linh, tôn giáo, lễ hội bung ra. Cuộc đấu tranh giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa hai hệ tư tưởng, giữa hai con đường đi còn rất phức tạp và quyết liệt. Thế giới sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã có những biến động nhanh, cách mạng lâm vào thoái trào. Nhiều người trăn trở, suy tư; cũng không ít người dao động, chuệnh choạng; thậm chí có người phản bội, trở cờ thật sự.
Cùng với đà phát triển của kinh tế, văn hóa, khoa học, trình độ dân trí, dân chủ ngày càng cao, đòi hỏi của xã hội ngày càng lớn, nhất là những đòi hỏi về thông tin, về dân chủ, công bằng. Trong khi đó, đội ngũ và điều kiện làm công tác tư tưởng - văn hóa của chúng ta còn không ít hạn chế, bất cập.
Trong Đảng, trong bộ máy nhà nước và trong xã hội còn không ít tiêu cực và việc làm sai trái, nói không đi đôi với làm. Đó là những khó khăn của công tác tư tương.
Vừa qua, công tác tư tưởng của chúng ta có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, đạt được nhiều thành tích to lớn trên các mặt, đồng thời cũng còn những thiếu sót, hạn chế. Chúng ta cần tiếp tục đi sâu suy nghĩ, tổng kết trên từng lĩnh vực, theo từng chuyên đề, ở từng địa phương để rút ra những kinh nghiệm cần thiết. Ví dụ: Công tác tuyên truyền miệng vừa qua kinh nghiệm thế nào? Chỉ đạo công tác báo chí, xuất bản ra sao? Việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, chống các hủ tục làm thế nào để có hiệu quả thiết thực? Kinh nghiệm xử lý các “điểm nóng”? Kinh nghiệm đấu tranh tư tưởng trong tình hình mới?, v.v..
Không phải chúng ta không có những kinh nghiệm quý, nhất là trong những năm đổi mới gần đây, có nhiều sự kiện lớn, mới và quan trọng, như bầu cử đại biểu Quốc hội; kỷ niệm 50 năm Ngày thương binh - liệt sĩ; phong trào ủng hộ đồng bào bị bão lụt; tổ chức thành công Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp, xuất khẩu 3,7 triệu tấn gạo,... Rồi sự kiện Thái Bình; sự kiện xét xử các vụ án lớn Vũ Xuân Trường, Tamexco, Khánh “trắng”... với nhiều án tử hình và chung thân. Nhiều cán bộ, viên chức nhà nước bị xử lý. Về sự kiện Thái Bình có thể còn có sự phân tích khác nhau, rút ra kết luận và bài học khác nhau trên khía cạnh này, khía cạnh khác, nhưng rõ ràng đây là hiện tượng mới chưa bao giờ có dưới chế độ ta: Hàng nghìn người dân ở một vùng có truyền thống cách mạng đi khiếu kiện tập thể, quay lưng lại với chính quyền và tổ chức đảng ở cơ sở. Chỉ mới xem xét bước đầu, chúng ta đã phải xử lý tới hơn 340 cán bộ cơ sở, 5 ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Bí thư và Chủ tịch tỉnh đều mất chức. Tất cả điều đó nói lên cái gì? Công tác tư tưởng có kinh nghiệm gì? Nếu đi sâu suy nghĩ, tổng kết chắc chắn sẽ rút ra được những kinh nghiệm bổ ích.
Về phương hướng công tác tư tưởng - văn hóa trong thời gian tới, tôi nhất trí với báo cáo của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và nhiều ý kiến đã phát biểu. Tôi xin nhấn mạnh thêm một số điểm:
Một là, công tác tư tưởng - văn hóa phải bảo đảm tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm tăng cường sự thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân (thống nhất nhận thức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động), tạo ra một không khí phấn chấn đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện thắng lợi Cương lĩnh và đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Muốn thế, công tác tư tưởng phải làm sáng tỏ quan điểm, đường lối của Đảng, không chỉ về nội dung mà cả về căn cứ khoa học, cơ sở lý luận và thực tiễn của quan điểm, đường lối đó. Làm sáng tỏ những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tạo ra sự nhất trí cao trong Đảng và trong xã hội, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, đội ngũ công chức, viên chức nhà nước. Hiện nay, bên cạnh chiều thống nhất là chủ yếu, ở một bộ phận nhất định vẫn có sự phân tâm, thiếu thống nhất trên một số vấn đề. Thậm chí có người đã viết tài liệu công khai bài bác hệ tư tưởng và đường lối của Đảng. Cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh giữa hai con đường, đấu tranh bảo vệ đường lối của Đảng vẫn diễn ra rất phức tạp. Như các đồng chí đã nói, đây là mặt trận thật sự gay gắt và phức tạp.
Đường lối, quan điểm của Đảng được thể hiện trước hết và cơ bản ở Cương lĩnh, Điều lệ, các nghị quyết của Đảng và được thể chế hóa thành Hiến pháp, luật pháp của Nhà nước. Đó là kết tinh của trí tuệ tập thể, kết quả của quá trình nghiên cứu, thảo luận một cách dân chủ từ dưới lên, được Đại hội và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương biểu quyết hoặc Quốc hội thông qua, trở thành ý chí của toàn Đảng, toàn dân. Vì vậy, sự thống nhất phải trên cơ sở Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng và luật pháp của Nhà nước. Phải xây dựng niềm tin và củng cố niềm tin, xây dựng ý chí kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững bước đi lên theo định hướng mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Từ cơ sở đó, chúng ta chủ động trong công tác tuyên truyền, giáo dục, phê bình và tự phê bình; không cho phép bất kỳ ai xuyên tạc, kích động, làm phân tâm hoặc phá vỡ sự thống nhất của chúng ta. Cái gì có lợi cho sự thống nhất thì ta nói và làm, cái gì có hại cho sự thống nhất thì ta tránh. Ngay việc sử dụng tài liệu để đăng công khai trên báo thế nào cũng phải cân nhắc, tỉnh toán thật kỹ. Vừa rồi Hội đồng tham mưu tình báo Hoa Kỳ xuất bản cuốn sách Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, trong đó nói rõ Chiến tranh lạnh đã kết thúc, nhưng Hoa Kỳ vẫn phải duy trì lực lượng tình báo mạnh với một cơ cấu và hoạt động thích hợp. Theo cuốn sách này, tình báo Hoa Kỳ sẽ triệt để khai thác các thông tin công khai. Vừa qua, 95% thông tin được CIA sử dụng là từ các nguồn công khai. Trong vòng 4 năm qua, thông tin mà CIA khai thác đã tăng lên gấp 10 lần. Họ thành lập tổ chức để khai thác các tài liệu từ các nguồn công khai. Vậy, báo chí của chúng ta có tính tới yếu tố này không, hay công bố cả những bí mật của quốc gia có hại cho sự nghiệp cách mạng?
Hai là, công tác tư tưởng - văn hóa tham gia tổng kết thực tiễn, tiếp tục bổ sung hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là trên những vấn đề chưa rõ hoặc đang nổi cộm.
Như trên đã nói, chúng ta đi vào đổi mới, bên cạnh thuận lợi cũng có không ít khó khăn, trong đó có những khó khăn về tư tưởng và lý luận, vì vậy phải tiến hành tổng kết thực tiễn, nhất là tổng kết kinh nghiệm của những điển hình tiên tiến, phát huy nhân tố mới. Công tác tư tưởng - văn hóa cần hướng về cơ sở, đi sát thực tiễn, hiểu rõ tâm trạng và nguyện vọng của quần chúng, khai thác và phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sáng tạo của Nhân dân, vừa kịp thời định hướng tư tưởng trong Nhân dân vừa động viên Nhân dân tham gia xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, công tác tư tưởng - văn hóa tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, truyền thống và bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực muốn cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay có nhiều biểu hiện mới. Bên ngoài đang rộ lên những tài liệu, những cuộc hội thảo, trả lời phỏng vấn; trong nước tán phát một số tài liệu trái với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, xuyên tạc tình hình đất nước. Hình như có sự phối hợp bên trong và bên ngoài. Thực chất luận điểm không có gì mới lắm, vẫn là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng, không tán thành con đường chủ nghĩa xã hội. Họ nói đến mức đi lên chủ nghĩa xã hội là đi vào ngõ cụt, là bế tắc (?!); rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là nguyên nhân gây ra sự trì trệ về trí tuệ (?!); rằng không có tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng không nên lãnh đạo toàn diện, phải đa nguyên, đa đảng, thậm chí không cần cả sự lãnh đạo của Đảng, phải thực hiện mạnh hơn nữa dân chủ tự do (theo kiểu tư sản), tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do đến mức cho ra báo tư nhân không cần xin phép. Họ phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng... Tuy nhiên, nét mới của lần này là họ nói thẳng thừng hơn, quyết liệt hơn, có hệ thống hơn và công khai tán phát tài liệu, ngang nhiên trả lời phỏng vấn ở bên ngoài.
Chúng ta không hề cường điệu. Chúng ta dứt khoát phải đấu tranh. Đối với những người là đảng viên, Điều lệ Đảng đã quy định phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng; nếu khác ý kiến thì được bảo lưu, nhưng vẫn phải chấp hành nghị quyết của Đảng và không được truyền bá những ý kiến riêng của mình trái với nghị quyết của Đảng. Những người vi phạm quy định đó, công khai tán phát tài liệu, truyền bá ý kiến trái với đường lối của Đảng thì phải xử lý về tổ chức. Còn nội dung những luận điểm thì trao đổi và tranh luận. Trao đổi, tranh luận để làm sáng tỏ đường lối, quan điểm của Đảng, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân; đồng thời phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái.
Ba yêu cầu và nhiệm vụ lớn nêu trên có quan hệ mật thiết với nhau, tựu trung là nhằm củng cố, nâng cao ý chí, bản lĩnh, niềm tin đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta trong thời kỳ mới.
Đương nhiên, để thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản đó cần có những điều kiện. Điều kiện về cơ sở vật chất, về phương tiện làm việc; điều kiện về chế độ, chính sách; điều kiện về tổ chức bộ máy và đặc biệt là điều kiện về đội ngũ cán bộ.
Chúng ta cần quan tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề này, tích cực kiện toàn tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tư tưởng - văn hóa. Hơn ai hết, đội ngũ chúng ta cần nhận thức đầy đủ yêu cầu và trách nhiệm của công tác tư tưởng - văn hóa trong tình hình hiện nay, để từ đó tự bồi dưỡng, học tập, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, trình độ mọi mặt của mình, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được phân công.
7. Quyền lực tối thượng ở Việt Nam là phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Thời gian gần đây, một số “nhà dân chủ” trong nước và ngoài nước cho rằng, bộ máy chính trị ở Việt Nam đã lộng quyền, tha hóa quyền lực. Thực tế đó chỉ là sự đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Trên trang Doithoaionline.com, có đăng tải bài viết: “Tha hóa quyền lực” đã cho rằng ở Việt Nam, quyền lực là độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức “tha hóa” ngay trong nội bộ Đảng mà không vấp phải sự phản ứng hay giám sát nào từ các đảng phái chính trị khác của thể chế; độc tôn chính trị tất sẽ... “tham nhũng chính sách”; tam quyền phân lập: cần nhưng chưa đủ... Đây thực chất là những thủ đoạn, luận điệu bịa đặt, xuyên tạc hết sức nguy hiểm hòng chia rẽ Đảng với Nhân dân, làm suy yếu, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên:
Bản chất quyền lực tối thượng ở Việt Nam là phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Với chế độ của chúng ta, từ khi đặt nền móng độc lập (năm 1945) đến nay, Hiến pháp và luật pháp của Việt Nam luôn hướng tới những điều tốt đẹp, quyền lực tối thượng luôn để phục vụ Nhân dân và Tổ quốc. Điều này là bất di bất dịch. Gần 80 năm qua, chúng ta luôn kiên định, đem tất cả của cải và vật chất, trí tuệ và niềm tin, nhất quán với con đường đã chọn, nhưng cũng biết cách linh hoạt để bảo vệ quyền lợi cao nhất của Nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Để giữ gìn sự liêm chính của chính thể, sự trong sạch của bộ máy công quyền, những năm qua, chúng ta đã đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết "nhốt" quyền lực trong lồng cơ chế.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, đã nhận định: "Thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống tham nhũng nói riêng cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực và cơ chế kiểm soát quyền lực là yếu tố cơ bản, nền tảng, có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng. Phải xây dựng các quy chế nội bộ của Đảng, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, liêm chính, gương mẫu đi đầu trong phòng, chống tham nhũng... Khẩn trương hoàn thiện các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch".
Xã hội Việt Nam ngày càng công bằng, dân chủ, văn minh hơn, trước hết do chúng ta đã biết tự cân bằng các khu vực quyền lực, ứng xử đúng mực với mọi giai tầng xã hội. Điều này không phải bây giờ mới diễn ra mà đã có từ thượng cổ. Đó chính là nền tảng văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng phong phú, sâu sắc, toàn diện và luôn được các thế hệ người Việt Nam vun trồng, bồi đắp và được Đảng ta phát huy.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là chính danh, hợp hiến và hợp pháp, không có sự độc tôn chính trị
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có một điều quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam”. Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy”. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ và đồng thuận của các tổ chức có liên quan, không phải do Cương lĩnh, Điều lệ Đảng “đơn phương” quy định.
Xã hội Việt Nam đang trưởng thành về mọi mặt. Trong bước đường trưởng thành sẽ phải đối mặt và vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, mà thách thức và trở ngại lớn nhất chính là quá trình thực thi quyền lực trong cơ chế chính trị một Đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta. Điều này đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức sâu sắc, rõ ràng và đang nỗ lực thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ để bảo đảm cho đất nước ta phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Gần 50 năm sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng. Mới đây, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Quy định số 114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Quy định số 205-QĐ/TW do Bộ Chính trị khóa XII ban hành năm 2019 chỉ nói đến kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Còn Quy định số 114 đã đề cập đến việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ với phạm vi rộng hơn.
Bên cạnh đó, các cơ chế, giải pháp cũng được quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn. Điều này cho thấy, Đảng ta không ngừng hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tham nhũng, tha hóa quyền lực, nhằm bảo đảm mục tiêu ở đâu có quyền lực thì ở đó phải được kiểm soát chặt chẽ. Đảng ta luôn ý thức về sự lãnh đạo của mình chủ yếu phải bằng giá trị (văn hóa) chứ không phải bằng quyền lực và Đảng phải nghĩ ra các cơ chế để đảng viên, Nhân dân và pháp luật kiểm soát mình, kể cả nhân cách và việc sử dụng quyền lực, để Đảng được rèn luyện liên tục, thường xuyên; từ đó mà không bị thoái hóa và ngày càng trưởng thành hơn. Thực hiện điều ấy bằng cơ chế kiểm soát quyền lực và cơ chế thực thi dân chủ. Để có thể thành công, bản thân Đảng phải gương mẫu, từng cấp ủy và từng cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, vượt qua chính mình.
Gần 80 năm qua, kể từ ngày lập quốc theo chế độ mới đến nay, việc thực thi quyền lực nhà nước của chúng ta ngày càng đúng đắn, tốt đẹp hơn, vì sự tối thượng là phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Do đó, nếu “nhà dân chủ” nào không hiểu bản chất vấn đề, cố ý đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất, đánh tráo khái niệm giữa sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ với mục tiêu, bản chất thực thi quyền lực tối cao thuộc về nhân dân của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là điều đáng phải phê phán.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY AN GIANG